Nguồn chứng cứ là nguồn chứa đựng thông tin và có vai trò quan trọng để cơ quan có thẩm quyền có cơ sở xét xử. Song hành cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các loại chứng cứ được lấy từ mạng xã hội cũng phổ biến hơn trong các vụ án hiện nay. Vậy những tin nhắn được trên Facebook, Zalo có được xem là chứng cứ trong vụ án dân sự không? Hãy cùng Pháp Trị tìm hiểu vấn đề trên.

Căn cứ pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Nội dung tư vấn

Chứng cứ trong vụ án dân sự là gì?

Tại quy định của Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.

Tin nhắn trên facebook, zalo có được xem là chứng cứ trong vụ án dân sự hay không?

Căn cứ Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về nguồn của chứng cứ như sau:

“Điều 94. Nguồn chứng cứ

Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

  1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
  2. Vật chứng.
  3. Lời khai của đương sự.
  4. Lời khai của người làm chứng.
  5. Kết luận giám định.
  6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
  7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
  8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
  9. Văn bản công chứng, chứng thực.
  10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.”

Theo đó, dữ liệu điện tử cũng được xem là một trong những nguồn của chứng cứ.

Đồng thời, khoản 3 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về việc xác định chứng cứ như sau:

“3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.”

Như vậy, căn cứ theo những quy định nêu trên, tin nhắn là một dạng thông điệp dữ liệu điện tử, đây được coi là nguồn của chứng cứ. Do đó, tin nhắn trên facebook, zalo có thể được xem là chứng cứ trong tố tụng dân sự nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên, cụ thể: đó phải là tin nhắn có thực, thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.

Tuy nhiên, không phải bất cứ tin nhắn nào cũng được coi là nguồn chứng cứ hợp pháp. Để được xem là chứng cứ thì cần đáp ứng các điều kiện sau:

Tính hợp pháp

Tin nhắn này phải được thu thập theo đúng thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định, cả quá trình khám xét, thu giữ vật chứng, sử dụng công nghệ được cơ quan có thẩm quyền công nhận.

Tính khách quan

Tin nhắn này phải có thật, tồn tại khách quan, nguồn gốc rõ ràng; không có dấu hiệu bị làm cho sai lệch, biến dạng; được tìm thấy khi lưu trong thiết bị di động, thiết bị điện tử như máy tính, điện thoại, máy tính bảng…

Tính liên quan

Tin nhắn chụp màn hình điện thoại cần phải liên quan đến hành vi phạm tội. Có thể dùng làm căn cứ để xác định các tình tiết của vụ án về không gian, thời gian; nội dung tin nhắn có thông tin về đối tượng, hành vi phạm tội, nơi hoạt động, động cơ, nạn nhân, thiệt hại…

Việc giao nộp tài liệu, chứng cứ được quy định như thế nào?

Theo Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ như sau:

– Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để giải quyết vụ việc dân sự.

– Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ.

– Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.

– Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.

– Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.

Đối với chứng cứ là dữ liệu điện tử, Điều 99 BLTTHS 2015 nêu rõ, dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.

Như vậy, những tin nhắn trao đổi qua Facebook, Zalo có thể được xem là một nguồn chứng cứ và dùng làm chứng cứ chứng minh tại tòa án.

Trên đây nội dung tư vấn về câu hỏi “Tin nhắn trên facebook, zalo có được xem là chứng cứ trong vụ án dân sự hay không?”Pháp Trị mong rằng bài viết sẽ giúp ích bạn trong cuộc sống. Bạn được tư vấn về các vấn đề khác vui lòng liên hệ Hotline 0833.125.123

    Hỗ trợ giải đáp




    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

    Contact Me on Zalo
    0833 125 123