Nuôi con nuôi là một nghĩa cử cao đẹp trong đời sống xã hội hiện nay. Xuất phát từ tình thương yêu những đứa trẻ mồ côi, lang thang cơ nhỡ hướng đến một cuộc sống có hơi ấm hạnh phúc gia đình, được sinh trưởng và phát triển trong môi trường tốt nhất dành cho trẻ em.

Căn cứ pháp lý

  • Bộ luật Dân sự 2015;
  • Luật Hôn nhân gia đình 2014;
  • Luật nuôi con nuôi 2010;

Nội dung tư vấn

Nuôi con nuôi là gì?

Nuôi con nuôi dưới góc độ pháp lý có thể hiểu là việc một người đã trưởng thành (hoặc một cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp) nhận một hay nhiều trẻ em không do mình trực tiếp sinh ra làm con. Việc nhận nuôi làm phát sinh quan hệ cha, mẹ – con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm, tức là kể từ thời điểm nhận nuôi, người nhận có tư cách là cha, mẹ của trẻ em được nhận làm con nuôi.

Dưới góc độ pháp lý

Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.

Theo đó, quan hệ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi được thiết lập một cách lâu dài, bền vững thông qua việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Dưới góc độ pháp lý quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ được công nhận khi các bên thực hiện việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Điều kiện nuôi con nuôi là gì?

Luật Nuôi con nuôi năm 2010 không những đặt ra điều kiện đối với người nhận nuôi mà còn đặt ra đối với người được nhận nuôi. Chỉ khi đáp ứng tất cả các điều kiện này thì quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi mới được Nhà nước công nhận. Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định nào giải thích thế nào là điều kiện nuôi con nuôi.

Có thể hiểu “điều kiện nuôi con nuôi” chính là tổng hợp những yêu cầu mà các bên chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi phải đáp ứng được khi tiến hành xác lập mối quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại, giữa con nuôi đối với cha, mẹ nuôi.

Điều kiện nuôi con nuôi theo quy định pháp luật

Đối với điều kiện của người được nhận nuôi

Theo quy định của pháp luật thì người được nhận là con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi, trường hợp cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi thì người được nhận là con nuôi phải dưới 18 tuổi.

Trẻ em dưới 16 tuổi là đối tượng thuộc nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ không đủ điều kiện thực hiện được quyền sống, quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền được học tập… rất cần sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ phía gia đình, nhưng vì nhiều lý do các em không được hưởng những quyền cơ bản đó. 

Đối với người nhận nuôi

Một là, phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định qua 02 tiêu chí: độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. 

Việc quy định người nhận nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là hoàn toàn cần thiết. Bởi, nếu họ không thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đồng nghĩa với việc họ không thể chăm lo cho chính bản thân mình và lẽ đương nhiên không thể chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt cho con nuôi.

Hai là, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên

Việc quy định người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên sẽ đảm bảo cách ứng xử trong gia đình hợp với lẽ sống, truyền thống văn hóa gia đình, đồng thời ngăn ngừa tình trạng người nhận nuôi con nuôi lạm dụng tình dục đối với người con được nhận nuôi.

Ba là, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi

Người con nuôi chỉ được chăm sóc, giáo dục tốt khi người nhận nuôi có sức khỏe, có kinh tế để đảm bảo chăm lo mọi mặt cho con nuôi. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất lẫn trí tuệ và đạo đức của trẻ được nhận nuôi một cách tốt nhất.

Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng điều kiện này.

Bốn là, có tư cách đạo đức tốt

Một người được coi là người có tư cách đạo đức là người sống có quy tắc, chuẩn mực phù hợp với lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội.

Một người được coi là có tư cách đạo đức tốt khi người đó không thuộc một trong các trường hợp không được phép nhận con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 14: “Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em”. 

Được phát triển trong một môi trưởng tốt, người được nhận nuôi mới có đủ điều kiện phát triển một cách bình thường cả về thể xác lẫn tâm hồn.

Sự đồng ý cho làm con nuôi

Quy định tại Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010. Việc nhận nuôi thường xuất phát từ ý chí, mong muốn của cha mẹ nuôi. Do vậy, cha mẹ nuôi biết trước được hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Để quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp, ngoài ý chí của cha mẹ nuôi thì ý chí của cha đẻ, mẹ đẻ, người giám hộ của người được nhận làm con nuôi; ý chí của con nuôi là một điều kiện tất yếu.

Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Pháp Trị liên quan đến vấn đề “Vấn đề nhận con nuôi theo quy định của pháp luật. Bạn đọc có nhu cầu được tư vấn pháp luật vui lòng liên hệ Hotline 0833.125.123

    Hỗ trợ giải đáp




    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

    Contact Me on Zalo
    0833 125 123