Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cùng Pháp Trị tìm hiểu quy định của pháp luật về vấn đề này.

Căn cứ pháp lý

  • Bộ luật Dân sự 2015

Nội dung tư vấn

Căn cứ xác lập quyền đại diện

Điều 135 BLDS 2015 quy định: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo  quyết  định  của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).”

Như vậy, về bản chất có thể nhận định được rằng, căn cứ xác lập quyền đại diện dựa trên hai tiêu chí chính là:

  • Đại diện theo pháp luật
  • Đại diện theo uỷ quyền

Mục đích của việc xác lập quan hệ đại diện là để giúp người được đại diện giao dịch với một bên thứ ba, thông qua người đại diện. Khi đó, người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập các quyền và nghĩa vụ với người thứ ba, gây hậu quả pháp lý đến người được đại diện.

Người đại diện theo pháp luật

Người đại diện theo pháp luật được quy định tại Điều 136, Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 gồm:

Người đại diện theo pháp luật của cá nhân

“1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”

Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân

“1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:

a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và  mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nh n theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.”

Quy định này chi tiết và cụ thể các trường hợp đại diện theo pháp luật, đảm bảo sự thống nhất về nội dung lập pháp trong toàn chế định về người đại diện. Phạm vi điều chỉnh của chế định này cũng bao hàm một khoảng rộng hơn và cụ thể hơn so với chế định đại diện được quy định trong các bộ luật trước kia, nhất là Bộ luật Dân sự 2015.

Người đại diện theo uỷ quyền

Điều 138 BLDS 2015 quy định về đại diện theo ủy quyền như sau:

“1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.”

Phạm vi đại diện

Theo quy định tại Điều 141 BLDS 2015 quy định về phạm vi đại diện như sau:

“1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:

a) Quyết định của cơ quan có thẩm  quyền;

b) Điều lệ của pháp nhân;

c) Nội dung ủy quyền;

d) Quy định khác của pháp luật.

2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.”

Có thể thấy Điều 144 BLDS 2015 nêu rất rõ căn cứ để xác định phạm vi ủy quyền tương ứng với từng hình thức đại diện. Đối với đại diện theo pháp luật, phạm vi ủy quyền được xác định căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc xác định theo điều lệ của pháp nhân; đối với đại diện theo ủy quyền, phạm vi ủy quyền xác định căn cứ vào nội dung ủy quyền.

Thời hạn đại diện

Theo quy định tại Điều 140 BLDS 2015, thời hạn đại diện được xác định như sau:

“1. Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.

2. Trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thời hạn đại diện được ác định như sau:

a) Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó;  b) Nếu quyền đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời   hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.”

Thời hạn đại diện là một căn cứ pháp lý quan trọng nhằm xác định hiệu lực pháp lý của các giao dịch dân sự do người đại diện xác lập với người thứ ba, từ đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của người được đại diện. Nếu các giao dịch dân sự này được xác lập ngoài thời hạn đại diện sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tương ứng của người được đại diện. Vì vậy, việc BLDS 2015 quy định về việc xác định thời hạn đại diện là một điểm sáng nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng hơn cho việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan, từ đó góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.

Chấm dứt đại diện

Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 BLDS 2015, việc chấm dứt đại diện được xem xét trong hai trường hợp, tương ứng với hai hình thức đại diện là chấm dứt đại diện theo pháp luật và chấm dứt đại diện theo ủy quyền. Cụ thể như sau:

Khoản 3 Điều 140 BLDS 2015 quy định: “Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:

“a) Theo thỏa thuận;

b) Thời hạn ủy quyền đã hết;

c) Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;

d) Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;

đ) Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

e) Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;

g) Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.”

Khoản 4 Điều 140 BLDS 2015 quy định: “Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây:

“a) Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục; 

b) Người được đại diện là cá nhân chết;

c) Người  được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

d) Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.”

Hy vọng bài viết trên đây hữu ích đối với bạn đọc!

Trên đây nội dung tư vấn về “Quy định của pháp luật về người đại diện”Pháp Trị  hy vọng rằng bài viết sẽ giúp ích bạn trong cuộc sống. Bạn đọc muốn tư vấn về các vấn đề khác liên quan vui lòng liên hệ Hotline 0833.125.12

    Hỗ trợ giải đáp




    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

    Contact Me on Zalo
    0833 125 123